KIỂM SOÁT NHIỄM KHUẨN
1. ĐẠI CƯƠNG KIỂM SOÁT NHIỄM KHUẨN
Các kỹ thuật ngăn ngừa hay kiểm soát sự lan truyền của vi sinh vật giúp bảo vệ bệnh nhân và các nhân viên y tế khỏi bệnh. Bệnh nhân trong tất cả các đơn vị chăm sóc y tế đều có nguy cơ bị nhiễm trùng mắc phải vì sức đề kháng với các vi sinh vật gây nhiễm trùng thấp, tăng sự phơi nhiễm với nhiều loại vi sinh vật gây bệnh và các thủ thuật xâm nhập. Biết được các kỹ thuật ngăn ngừa và kiểm soát nhiễm trùng, điều dưỡng có thể tránh sự lan truyền vi sinh vật sang bệnh nhân.
Các nhân viên y tế có thể tự bảo vệ khỏi các bệnh lây trong cộng đồng, hoặc tránh sự tiếp xúc với các nguồn nhiễm trùng nhờ vào sự hiểu biết về quy trình nhiễm trùng và các hàng rào bảo vệ thích hợp.
2. BẢN CHẤT CỦA NHIỄM TRÙNG
Nhiễm trùng là sự xâm nhập của tác nhân gây bệnh hay các vi sinh vật có khả năng gây bệnh vào cơ thể. Nếu vi sinh vật không có khả năng gây nên một loạt các tổn thương vào các tế bào hay các mô thì sẽ tạo nên nhiễm trùng không triệu chứng. Bệnh sẽ xảy ra nếu tác nhân gây bệnh nhân lên và gây ra sự thay đổi trên mô bình thường. Nếu bệnh nhiễm trùng có thể truyền trực tiếp từ người này sang người khác thì nó được gọi là bệnh truyền nhiễm.
2.1. Chuỗi nhiễm trùng
Sự hiện diện của tác nhân gây bệnh không có nghĩa là nhiễm trùng bắt đầu. Sự phát triển của tác nhân gây bệnh trong một chu kỳ phụ thuộc vào những yếu tố dưới đây:
- Tác nhân gây bệnh.
- Ô chứa cho sự phát triển của tác nhân gây bệnh.
- Một đường ra từ ổ chứa.
- Một phương thức lan truyền.
- Một đường vào vật chủ.
- Một vật chủ cảm nhiễm.
Một nhiễm trùng sẽ phát triển nếu chuỗi này vẫn còn nguyên vẹn. Điều dưỡng thực hiện các phương pháp kiểm soát và ngăn ngừa để làm phá vỡ chuỗi nhiễm trùng này thì nhiễm trùng sẽ không phát triển.
2.1.1. Tác nhân nhiễm trùng
- Tác nhân nhiễm trùng bao gồm: vi khuẩn, virut, nấm, động vật nguyên sinh.
- Khả năng gây bệnh của tác nhân nhiễm trùng phụ thuộc vào những yếu tố sau:
+ Đủ số lượng vi sinh vật.
+ Độc lực (khả năng gây bệnh).
+ Khả năng đi vào và sống trên vật chủ.
+ Sự cảm nhiễm của vật chủ.
2.1.2. Ổ chứa
Ô nhiễm khuẩn là nơi vi sinh vật sống nhưng có thể nhân lên hoặc không. Ô nhiễm khuẩn hay gặp nhất là cơ thể người. Chúng sống trong các khoang của cơ thể, các chất dịch, trên da,... Sự hiện diện của vi sinh vật không phải luôn luôn gây bệnh. Vật mang là người hay động vật không có triệu chứng bệnh nhưng lại mang tác nhân gây bệnh và có thể truyền sang người khác. Ví dụ một người có thể mang virut viêm gan B không có triệu chứng nhiễm trùng nhưng có thể truyền sang người khác.
Để phát triển thì vi sinh vật cần một môi trường thích hợp, bao gồm thức ăn, nước, oxy, nhiệt độ, pH và ánh sáng thích hợp.
- Thức ăn: Vi sinh vật cần chất dinh dưỡng để sinh trưởng và phát triển. Một số loại vi sinh vật sinh hơi có thể sinh hơi hoại thư, phát triển trong môi trường hữu cơ. Những vi sinh vật khác như E. coỉi tiêu thụ những thức ăn không được tiêu hoá trong ruột. CO2 trong các chất vô cơ cung cấp chất
dinh dưỡng cho một số vi sinh vật khác.
- Nước: Hầu hết vi sinh vật đều cần nước và độ ẩm thích hợp để sống. Ví dụ: môi trường mà vi sinh vật ưa thích nhất là các chất dịch chảy ra từ các vết thương phẫu thuật.
- Nhiệt độ: Vi sinh vật chỉ sống trong một phạm vi nhiệt độ nhất định. Tuy nhiên, có một số loại vi sinh vật có thể sống ở những nhiệt độ mà có thể gây chết cho con người. Một số virut (virut
AIDS) có thể sống trong nước nóng. Nhiệt độ lạnh có xu hướng ngăn chặn sự phát triển và sinh sản của vi khuẩn và nhiệt độ cũng có thể huỷ hoại vi khuẩn.
- pH: Tính chất acid của môi trường quyết định khả năng của vi sinh vật. Hầu hết các vi sinh vật thích sống ở môi trường có độ pH khoảng từ 5 - 8. Vi khuẩn đặc biệt nảy nở trong môi trường nước tiểu với pH kiềm. Hầu hết các vi sinh vật không thể phát triển trong môi trường acid dạ dày.
- Ánh sáng: Vi sinh vật sinh sôi nảy nở trong môi trường tối như dưới quần áo, trong các khoang cơ thể. Ánh sáng cực tím có thể diệt một số loại vi khuẩn.
2.1.3. Đường ra của vi sinh vật
Sau khi vi sinh vật tìm thấy vị trí để phát triển và nhân lên, chúng có thể đi ra qua nhiều đường như da, niêm mạc, đường hô hấp, đường tiết niệu, đường dạ dày, ruột, đường sinh dục và đường máu.
- Da và niêm mạc: Bình thường da được xem như là đường vào vì bất cứ tổn thương nào trên da và niêm mạc đều có thể nhiễm trùng. Tuy nhiên nhiều lúc cơ thể đáp ứng với tác nhân gây bệnh biểu hiện bằng cách tạo ra mủ. Ví dụ: Tụ cầu vàng tạo mủ màu vàng còn trực khuẩn mủ xanh thì tạo ra mủ có màu xanh. Dòng chảy mủ này là đường ra của vi sinh vật.
- Đường hô hấp: Tác nhân gây bệnh như Mycobacterium tuberculosis nằm trong đường hô hấp có thể bị thải ra ngoài khi người nhiễm khuẩn hắt hơi, ho, nói chuyện hay ngay cả khi thở. Vi sinh vật đi ra qua mũi, miệng ở những người bình thường. Ở những bệnh nhân với đường thở nhân tạo như đặt nội khí quản, hay mở khí quản, vi sinh vật dễ dàng đi ra qua những thiết bị này.
- Đường tiết niệu: Nước tiểu bình thường là vô khuẩn. Tuy nhiên khi bệnh nhân có nhiễm trùng đường tiết niệu, vi sinh vật đi ra theo đường tiểu hay qua các mở thông tiết niệu, ví dụ như nước tiểu được dẫn qua xương mu.
- Đường dạ dày ruột: Miệng là một trong những vị trí bị nhiễm khuẩn nhiều nhất của cơ thể mặc dù hầu hết là vi khuẩn chí, là những vi khuẩn sống trong cơ thể và chống lại nhiễm trùng. Tuy nhiên những vi khuẩn chí này có thể trở thành tác nhân gây bệnh. Các vi sinh vật có thể đi ra khi một người nhổ nước bọt. Hôn, bài tiết phân, dẫn lưu mật qua vết thương phẫu thuật cũng như qua ống dẫn lưu, các chất nôn dạ dày cũng là những đường ra.
- Đường sinh dục: Các vi sinh vật như lậu cầu, virut HIV có thể đi ra qua niệu đạo ở đàn ông hay qua âm đạo ở phụ nữ.
- Đường máu: Máu thường là vô trùng nhưng trong một số trường hợp bệnh nhiễm trùng như viêm gan B, C, nó trở thành ổ chứa của tác nhân nhiễm trùng. Một tổn thương da có thể cho phép tác nhân gây bệnh đi ra khỏi cơ thể. Những người chăm sóc dễ dàng bị lây nếu không được bảo vệ cẩn thận.
2.1.4. Các phương thức lan truyền
- Tiếp xúc: Gồm tiếp xúc trực tiếp (người sang người); gián tiếp (kim, dao, bông), giọt nhỏ (ho, hắt hơi, nói chuyện).
- Không khí (ho, hắt hơi).
- Các phương tiện lây truyền như: các vật dụng bị nhiễm (nước, máu, thuốc, dung dịch), thức ăn (rửa tay, bảo quản, nấu thức ăn không đúng, thịt sống).
- Các vector truyền bệnh như: muỗi, chấy rận, bọ chét.
2.1.5. Đường vào của tác nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh có thể vào cơ thể vật chủ qua các đường như ở đường ra.
2.1.6. Sự cảm nhiễm của vật chủ
Một người có mắc bệnh nhiễm trùng hay không phụ thuộc vào sự cảm nhiễm với tác nhân gây bệnh. Sự cảm nhiễm phụ thuộc vào mức độ đề kháng với tác nhân gây bệnh. Một người có thể tiếp xúc lâu dài với một số lượng lớn vi sinh vật nhưng nhiễm trùng chỉ có thể xảy ra khi người đó trở nên cảm nhiễm với số lượng và sức mạnh của tác nhân nhiễm trùng. Sức đề kháng của một người đối với tác nhân nhiễm trùng được tăng cường bởi vaccin hay dinh dưỡng.
3. QUY TRÌNH ĐIỀU DƯỠNG
3.1. Nhận định
- Đánh giá cơ chế phòng vệ, sự nhạy cảm, kiến thức về nhiễm trùng của bệnh nhân.
- Hỏi bệnh sử của bệnh nhân và gia đình có thể biểu lộ sự phơi nhiễm với bệnh lây.
- Đánh giá lâm sàng để phát hiện các triệu chứng, dấu hiệu nhiễm khuẩn.
- Phân tích cận lâm sàng cung cấp các thông tin về khả năng đề kháng với nhiễm khuẩn của bệnh nhân.
- Tìm các yếu tố nguy cơ làm tăng sự cảm nhiễm của bệnh nhân với vi sinh vật để có kế hoạch can thiệp dự phòng tốt hơn.
- Phát hiện các dấu hiệu hay triệu chứng nhiễm khuẩn sớm, điều dưỡng có thể báo với các nhân viên y tế khác để thực hiện các liệu pháp và các can thiệp điều dưỡng.
3.1.1. Đánh giá tình trạng miễn dịch của cơ thể
- Đánh giá thực thể và tình trạng sức khoẻ của bệnh nhân biểu lộ tình trạng của cơ chế miễn dịch bình thường chống lại nhiễm trùng.
Ví dụ, bất cứ tổn thương ở da hay niêm mạc nào đều là vị trí tiềm tàng cho nhiễm khuẫn. Tương tự, những người hút thuốc nhiều sẽ có nguy cơ nhiễm trùng ở đường hô hấp sau phẫu thuật cao hơn vì các nhung mao của phổi ít hoạt động hơn và giảm khả năng tống các chất nhày từ đường dẫn khí của phổi.
- Đánh giá sự cảm nhiễm của bệnh nhân:
+ Tuổi: sự cảm nhiễm với nhiễm trùng thay đổi theo tuổi.
* Trẻ sơ sinh chỉ có kháng sinh do mẹ cung cấp.
* Hệ miễn dịch chưa trưởng thành của trẻ nhũ nhi không có đủ khả năng cung cấp đầy đủ kháng thể và các bạch cầu cần thiết. Tuy nhiên những trẻ bú mẹ có khả năng miễn dịch cao hơn trẻ bú bình vì chúng nhận kháng thể qua sữa mẹ.
* Khi lớn lên, hệ miễn dịch của trẻ phát triển dần nhưng trẻ vẫn cảm nhiễm với những vi sinh vật gây nhiễm trùng ở ruột và các nhiễm trùng khác như sởi, quai bị,...
* Người trẻ tuổi hay trung niên có cơ chế phòng ngự chống lại nhiễm trùng tốt.
* Người già có sự thay đổi về cấu trúc và chức năng của da, hệ tiết niệu và phổi. Sự miễn dịch với nhiễm khuẩn càng giảm khi tuổi càng tăng.
+ Tình trạng dinh dưỡng:
* Khi protein đưa vào không đủ do chế độ ăn nghèo nàn, bệnh tật, cùng với việc giảm các chất dinh dưỡng khác như cacbonhydrat thì sẽ làm giảm sự phòng ngự của cơ thể chống lại nhiễm trùng và làm vết thương chậm liền.
* Những bệnh nhân có các bệnh hay các vấn đề cần tiêu tốn nhiều protein như (chấn thương, bỏng rộng, sốt, sau phẫu thuật) sẽ có nguy cơ nhiễm khuẩn cao.
* Đánh giá chế độ ăn và khả năng dung nạp thức ăn của bệnh nhân. Những bệnh nhân khó nuốt, thay đổi về chức năng tiêu hoá, những người quá yếu.
+ Căng thẳng: Khi căng thẳng quá mức, cơ thể không thể chống lại sự xâm nhập của vi sinh vật.
+ Tính di truyền: Một số bệnh di truyền làm suy giảm đáp ứng của cơ thể với nhiễm trùng. Ví dụ như bệnh không có kháng thể trong máu hay bệnh về cấu trúc của kháng thể.
+ Tuỳ thuộc quá trình nhiễm bệnh:
* Những bệnh nhân có các bệnh về hệ miễn dịch có nguy cơ nhiễm trùng cao. Bệnh bạch cầu, AIDS là những tình trạng làm ảnh hưởng đến vật chủ bằng cách làm suy giảm sự phòng ngự chống lại nhiễm trùng.
* Bệnh nhân có các bệnh mãn tính và xơ cứng rải rác dễ cảm nhiễm với nhiễm trùng vì thiếu dinh dưỡng. Bệnh khí phế thủng và viêm phổi làm suy giảm khả năng hoạt động của các lông ở đường hô hấp và làm dày chất nhày; ung thư làm thay đổi đáp ứng miễn dịch và các bệnh mạch máu ngoại vi làm giảm dòng máu đến các mô tổn thương, làm tăng sự cảm nhiễm với vi khuẩn. Bệnh nhân bỏng cảm nhiễm rất cao vì có tổn thương bề mặt da. Bỏng càng sâu, càng rộng, nguy cơ nhiễm khuẩn càng cao.
+ Liệu pháp thuốc:
* Một số thuốc làm giảm miễn dịch. Hỏi bệnh sử xem bệnh nhân có uống thuốc nào làm tăng sự cảm nhiễm với vi sinh vật không. Corticostiroid được dùng trong nhiều bệnh, là những thuốc kháng viêm làm giảm đáp ứng viêm chống lại vi khuẩn và các tác nhân gây bệnh. Các thuốc chống ung thư tác động vào các tế bào ung thư nhưng gây ra tác dụng phụ làm ức chế tuỷ xương và gây độc tế bào bình thường.
* Tuỷ xương bị ức chế không thể sản xuất ra các tế bào lympho và giảm các tế bào bạch cầu.
3.1.2. Biểu hiện lâm sàng
- Các dấu hiệu nhiễm trùng có thể tại chỗ hay toàn thân:
+ Các nhiễm trùng tại chỗ hay gặp nhất ở vùng da, niêm mạc do chấn thương, phẫu thuật, loét ép và tổn thương miệng.
Đánh giá vùng bị nhiễm khuẫn tại chỗ: các vùng bị nhiễm khuẩn đỏ, sưng gây ra bởi viêm.
Dịch chảy ra từ vết thương hay tổn thương hở có thể màu vàng, xanh, nâu tuỳ thuộc vào tác nhân gây bệnh. Điều dưỡng hỏi bệnh nhân về dấu hiệu đau, phù nề xung quanh vị trí đó.
+ Nhiễm trùng toàn thân gây nên các triệu chứng toàn thân nhiều hơn các triệu chứng tại chỗ. Bệnh nhân thường sốt, mệt mỏi, đau. Các hạch vùng sẽ to ra, sưng và mềm khi sờ. Nếu nhiễm trùng nghiêm trọng và lan rộng, tất cả các hạch chính có thể lớn, gây ra cảm giác ăn mất ngon, nôn và buồn nôn.
- Nhiễm trùng toàn thân thường phát triển sau khi điều trị nhiễm trùng tại chỗ bị thất bại. Lúc này nhiệt độ cơ thể tăng có thể dẫn đến tăng nhịp tim và nhịp thở. Các nhiễm trùng liên quan đến các hệ thống chính của cơ thể có thể có các dấu hiệu đặc trưng. Ví dụ, nhiễm trùng ở phổi có thể gây ra ho có đàm mủ. Nhiễm trùng hệ tiết niệu làm nước tiểu có mùi hôi và đục.
- Nhiễm trùng ở người già có thể không biểu hiện các triệu chứng hay dấu hiệu đặc trưng. Thường thì bệnh nhân lớn tuổi khi phát hiện ra nhiễm trùng thì rất nặng bởi vì đáp ứng miễn dịch và đáp ứng viêm giảm. Thường thì người già nhạy cảm với đau, giảm hay mất đáp ứng sốt do sử dụng aspirin hay các thuốc kháng viêm không steroid lâu ngày. Các triệu chứng lú lẫn, lẫn lộn, đại tiểu tiện không tự chủ có thể là những triệu chứng của bệnh nhiễm trùng. Ví dụ, bệnh nhân bị viêm phổi không có các triệu chứng đặc trưng của sốt, rét run, đàm màu gỉ sắt. Các triệu chứng chỉ là nhịp tim nhanh và mệt mỏi toàn thân.
3.1.3. Các kết quả xét nghiệm
Các kết quả xét nghiệm biểu hiện tình trạng nhiễm trùng như xét nghiệm công thức máu có bạch cầu tăng, CRP (protein phản ứng C) tăng, VSS tăng,...
Tuy nhiên mặc dù có giá trị nhưng không đủ để phát hiện nhiễm trùng. Các yếu tố khác ngoài nhiễm trùng cũng làm thay đổi kết quả xét nghiệm. Ví dụ tổn thương hay căng thẳng có thể làm tăng số lượng neutrophile.
3.1.4. Các bệnh nhân nhiễm trùng
Điều dưỡng đánh giá ảnh hưởng của nhiễm trùng lên bệnh nhân và gia đình họ, có thể là thể chất, tâm thần, xã hội và kinh tế. Ví dụ, bệnh nhân AIDS có thể có nhiều vấn đề về tâm thần nghiêm trọng do sự xa lánh của gia đình và bạn bè. Nhiều bệnh nhân mắc bệnh mãn tính không có đủ tiền để chữa bệnh.
3.2. Chẩn đoán điều dưỡng
Trong suốt quá trình đánh giá, điều dưỡng tập hợp các kết quả khách quan như: vết mổ hở, lượng calo đưa vào giảm và tính chất đau ở vị trí của vết thương. Xác định các yếu tố nguy cơ. Ngoài ra điều dưỡng còn dựa vào các kết quả xét nghiệm để đưa ra được các chẩn đoán điều dưỡng đúng. Chẩn đoán phải có các yếu tố nguyên nhân thích hợp để điều dưõng có thể thiết lập các kế hoạch thích hợp.
Điều dưỡng có thể chẩn đoán nguy cơ của nhiễm trùng, hoặc chẩn đoán ảnh hưởng của nhiễm trùng lên tình trạng sức khoẻ. Sau đây là một số ví dụ chẩn đoán điều dưỡng.
- Nguy cơ nhiễm trùng do:
+ Thay đổi miễn dịch.
+ Sự huỷ hoại cơ.
- Nguy cơ tổn thương do thay đổi miễn dịch.
- Niêm mạc miệng bị thay đổi do:
+ Kích thích gây tổn thương của ống mũi - dạ dày.
+ Vệ sinh miệng không hiệu quả.
- Dinh dưỡng không đủ yêu cầu của cơ thể do:
+ Thói quen chế độ ăn nghèo nàn.
+ Chức năng dạ dày ruột thay đổi.
- Nguy cơ tổn thương da do:
+ Bất động lâu ngày.
+ Phơi nhiễm với các chất kích thích da.
- Xa lánh xã hội do khái niệm không đúng về các bệnh lây qua đường tình dục.
- Mặc cảm với vẻ bề ngoài của cơ thể do:
+ Tự ái liên quan đến các bệnh lây truyền qua đường tình dục.
+ Không thích các vết thương hở.
3.3. Lập kế hoạch
- Kế hoạch chăm sóc bệnh nhân dựa trên mỗi chẩn đoán điều dưỡng và các yếu tố liên quan. Điều dưỡng chăm sóc bệnh nhân nhiễm trùng do tổn thương da sẽ thực hiện chăm sóc da và các phương pháp xúc tiến sự liền da. Các phương pháp được lựa chọn cần có sự cộng tác của bệnh nhân, gia đình và các thành viên trong đội ngũ chăm sóc sức khoẻ. Mục tiêu của chăm sóc bao gồm:
+ Ngăn ngừa sự phơi nhiễm với các tác nhân nhiễm trùng.
+ Kiểm soát hay làm giảm sự lan rộng của nhiễm trùng.
+ Duy trì sự đề kháng với nhiễm trùng.
+ Bệnh nhân và gia đình học các kỹ thuật kiểm soát nhiễm khuẩn.
- Điều dưỡng thiết lập các mục tiêu ưu tiên cho việc chăm sóc. Ví dụ bệnh nhân có vết thương hở, mắc bệnh nhiễm trùng, không có khả năng dung nạp thức ăn cứng. Vấn đề ưu tiên của liệu pháp thuốc là xúc tiến sự liền vết thương trước khi thực hiện việc giáo dục bệnh nhân các phương pháp tự chăm sóc ở nhà. Khi tình trạng bệnh nhân cải thiện thì các vấn đề ưu tiên sẽ thay đổi và việc giáo dục bệnh nhân sẽ là một can thiệp cần thiết.
3.4. Thực hiện
Trong tất cả các đơn vị chăm sóc, mục tiêu đầu tiên của điều dưỡng là ngăn ngừa sự khởi phát, lan truyền của nhiễm trùng và đưa ra các phương pháp điều trị nhiễm trùng. Bằng cách phát hiện, đánh giá các yếu tố nguy cơ của bệnh nhân và thực hiện các phương pháp thích hợp, điều dưỡng có thể làm giảm nguy cơ nhiễm trùng.
3.4.1. Phòng bệnh nhiễm khuẩn
- Ngăn ngừa nhiễm trùng do sự phát triển và lan truyền bằng cách làm giảm số lượng và loại sinh vật được lan truyền từ các vị trí nhiễm trùng tiềm tàng.
- Sử dụng các dụng cụ vô khuẩn thích hợp, các hàng rào bảo vệ và rửa tay sạch sẽ là những ví dụ để có thể ngăn ngừa sự lan truyền của vi sinh vật.
- Tăng cường miễn dịch của cơ thể vật chủ bằng cách cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, nghỉ ngơi, duy trì các cơ chế bảo vệ sinh lý.
- Khi một bệnh nhân bị nhiễm trùng, điều dưỡng tiếp tục chăm sóc dự phòng để tránh sự lây truyền cho các bệnh nhân khác và cán bộ y tế.
3.4.2. Các phương pháp chăm sóc cấp tính
- Điều trị nhiễm trùng bao gồm việc loại trừ các tác nhân nhiễm trùng và hỗ trợ miễn dịch của bệnh nhân.
- Lấy bệnh phẩm từ các vị trí của cơ thể như dịch, hay từ các vị trí nhiễm trùng để cấy. Khi tác nhân gây bệnh đã được xác định thì bác sĩ kê đơn điều trị là hiệu quả nhất. Điều dưỡng cho bệnh nhân kháng sinh, các điều trị khác, theo dõi tác dụng phụ và đánh giá tiến triển của nhiễm trùng.
- Nếu nhiễm trùng toàn thân thì cần các phương pháp ngăn ngừa các biến chứng của sốt, duy trì lượng nước đầy đủ để ngăn ngừa sự mất nước do chảy mồ hôi.
- Nhiễm trùng tại chỗ cần các phương pháp giúp liền vết thương.
- Trong quá trình chăm sóc nhiễm trùng, điều dưỡng hỗ trợ cơ chế dự phòng cho bệnh nhân. Ví dụ bệnh nhân ỉa chảy do nhiễm trùng thì điều dưõng phải duy trì sự lành lặn của da để ngăn ngừa sự xâm nhập của vi sinh vật. Các phương pháp vệ sinh khác như súc rửa miệng, tắm rửa cũng làm giảm sự lan truyền vi sinh vật.
3.4.3. Ngăn ngừa nhiễm khuẩn
Điều dưỡng theo một số nguyên tắc và thủ thuật để ngăn ngừa nhiễm khuẩn và kiểm soát sự lan truyền của nó.
3.4.3.1. Kiểm soát hay loại trừ các tác nhân gây bệnh
- Làm sạch là loại bỏ các chất lạ như đất, các chất vô cơ bằng cách dùng nước hay các phương pháp cơ học có sử dụng xà phòng hoặc không.
Khi rửa các dụng cụ có bị vấy bẩn bởi các chất hữu cơ như máu, phân, nhày, mủ, điều dưỡng phải mang khẩu trang, bảo vệ mắt, găng tay không thấm nước. Những phương tiện này giúp bảo vệ sự tiếp xúc với vi khuẩn.
- Tiệt trùng và khử trùng:
+ Khử trùng, dùng để mô tả một quá trình loại bỏ nhiều hay tất cả các vi sinh vật, ngoại trừ các bào tử từ các vật dụng. Ví dụ về các chất khử trùng: cồn, clo, acid carbolic. Những chất hoá học này có thể ăn da và gây độc cho mô.
+ Tiệt trùng là một sự loại bỏ hoàn toàn hay huỷ hoại toàn bộ các vi sinh vật, bao gồm cả bào tử. Hơi nước dưới áp lực, khí ethylen oxit và các chất hoá học là những tác nhân tiệt trùng hay gặp nhất.
- Chọn phương pháp tiệt trùng hay khử trùng tuỳ thuộc vào những yếu tố dưới đây:
+ Nồng độ của dung dịch và độ dài tiếp xúc: Một nồng độ thấp và thời gian ngắn có thể làm giảm hiệu quả.
+ Loại và số lượng tác nhân gây bệnh: Một số vi sinh vật bị giết dễ dàng hơn những tác nhân khác. Số lượng tác nhân gây bệnh càng nhiều, thời gian tiệt trùng càng lâu hơn.
+ Tất cả bề mặt và vùng bị nhiễm bẩn phải được tiếp xúc với tác nhân tiệt trùng và khử khuẩn.
+ Nhiệt độ môi trường: Các tác nhân tiệt trùng có xu hướng hoạt động tốt nhất ở nhiệt độ phòng.
+ Sự hiện diện của xà phòng: Xà phòng có thể làm một số chất trở nên không hiệu quả. Phải rửa sạch sẽ các vật dụng cần thiết trước khi tiệt trùng.
+ Sự hiện diện của các chất hữu cơ: Các chất tiệt trùng có thể không hoạt động tốt trong môi trường hữu cơ. Vì vậy phải rửa sạch máu, nước bọt, mủ, dịch tiết của cơ thể.
3.4.3.2. Kiểm soát hay loại bỏ các ổ nhiễm trùng
Để kiểm soát hay loại bỏ các ổ nhiễm trùng, điều dưỡng phải loại bỏ các nguồn tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn như: các dịch của cơ thể, đổ những bệnh phẩm có khả năng lây truyền vi sinh vật một cách cẩn thận.
3.4.3.3. Kiểm soát đường ra
- Để kiểm soát các vi sinh vật thải ra qua đường hô hấp, điều dưỡng nên tránh nói chuyện trực tiếp vào mặt bệnh nhân hay tránh ho, nói, hắt hơi trực tiếp vào các vết thương hay các vùng vô trùng.
- Những điều dưỡng bị cúm nhẹ mà vẫn tiếp tục làm việc thì phải mang khẩu trang, đặc biệt là khi thực hiện các thủ thuật vô khuẩn. Nên tránh làm việc với những bệnh nhân cảm nhiễm cao với nhiễm trùng.
- Điều dưỡng phải mang găng khi cầm nắm các dịch tiết như nước tiểu, phân, máu.
3.4.3.4. Kiểm soát sự lan truyền
- Để kiểm soát sự lan truyền vi sinh vật có hiệu quả, điều dưỡng phải biết được các kiểu lan truyền và cách kiểm soát chúng.
- Tránh dùng chung các đồ dùng ăn uống, bô, túi đựng nước tiểu, khăn tắm. Nên rửa sạch nhiệt kế thuỷ tinh bằng xà phòng và nước sau mỗi lần dùng.
- Những vật dụng bẩn phải để cách xa không vấy bẩn vào quần áo bệnh nhân.
- Rửa tay là một kỹ thuật cơ bản nhất và quan trọng nhất để ngăn ngừa và kiểm soát sự lan truyền vi sinh vật.
- Tay bị nhiễm bẩn là nguyên nhân của nhiễm trùng chéo nên điều dưỡng phải rửa tay trước mỗi hành động của mình. Quyết định rửa tay lúc nào là tuỳ thuộc vào: cường độ tiếp xúc với bệnh nhân và các vật bị nhiễm bẩn; mức độ hay số lượng lây truyền có thể có trong mỗi lần tiếp xúc; sự cảm
nhiễm của bệnh nhân hay của nhân viên y tế đối với nhiễm trùng và thủ thuật hay các hành động được thực hiện. Ví dụ, nếu điều dưỡng chạm vào một vật mà không nhìn thấy bẩn, việc rửa tay là không cần thiết. Ngược lại, nếu tiếp xúc lâu dài với dịch chảy ra từ vết thương thì việc rửa tay là cần thiết. Larson khuyên điều dưỡng nên rửa tay trong những tình huống sau:
+ Khi bẩn có thể nhìn thấy bằng mắt.
+ Trước và sau khi tiếp xúc với bệnh nhân.
+ Sau khi tiếp xúc với các nguồn vi sinh vật (máu, các dịch của cơ thể, niêm mạc, da không còn nguyên vẹn hay những vật có thể nhiễm bẩn).
+ Trước khi thực hiện các thủ thuật xâm nhập. Ví dụ như đặt catheter vào tĩnh mạch (nên rửa tay bằng xà phòng tiệt khuẩn).
+ Sau khi tháo găng ra.
Trung tâm kiểm soát bệnh và các dịch vụ y tế công cộng cho biết rằng, mỗi lần rửa tay tối thiểu 10 - 15 giây có thể loại bỏ hầu hết các vi sinh vật trên da. Nếu tay bẩn thì phải rửa nhiều lần hơn. Larson và Lusk nhận thấy rằng, điều dưỡng rửa tay 8 lần một ngày thì sẽ giảm mang vi khuẩn gram âm trên tay.
Khi cần loại bỏ tất cả các vi sinh vật trên tay nên dùng xà phòng kháng khuẩn. Những tình huống này bao gồm: khi tiếp xúc với người lớn tuổi, bệnh nhân suy giảm miễn dịch, tổn thương hệ thống da, trước lúc thực hiện các thủ thuật xâm nhập.
Điều dưỡng hướng dẫn bệnh nhân về kỹ thuật rửa tay đúng và số lần rửa tay. Điều này rất quan trọng nếu vẫn còn tiếp tục chăm sóc bệnh nhân. Giáo dục bệnh nhân rửa tay trước khi ăn, khi cầm nắm thức ăn hay các chất hữu cơ, sau khi đại tiểu tiện, sau khi cầm các dụng cụ nhiễm bẩn,...
3.4.3.5. Kiểm soát đường vào
- Duy trì sự liền lặn của da và hàng rào niêm mạc.
- Bệnh nhân nằm một chỗ dễ bị tổn thương da, vì vậy không được đặt bệnh nhân trên các vật có thể làm tổn thương da. Khăn trải giường phải khô và không có nếp gấp, xoay trở bệnh nhân trước khi da bị đỏ.
- Vệ sinh miệng thường xuyên, ngăn ngừa khô niêm mạc miệng. Sử dụng các chất chống khô môi làm môi khỏi bị nứt.
- Sau đại tiểu tiện, phụ nữ phải lau vùng tầng sinh môn từ trên lỗ tiểu xuống dưới hậu môn sẽ giảm nguy cơ nhiễm trùng hệ tiết niệu sinh dục.
- Sau tiêm thuốc hay truyền tĩnh mạch, các kim không có nắp bảo vệ phải được đặt vào các hộp không bị xuyên thủng. Những trường hợp bị kim đâm nên báo cáo ngay để có các điều trị thích hợp.
Điểm nối giữa ống thông và ống dẫn nước tiểu luôn luôn được giữ kín. Khi hệ thống này đóng kín thì các chất chứa bên trong được xem như là vô trùng. Nút cao su ở đáy của túi đựng nước tiểu phải đóng kín và sạch để ngăn ngừa vi sinh vật xâm nhập.
Một cách nữa để làm giảm đường vào của vi sinh vật là kỹ thuật làm sạch vết thương. Bản thân vết thương được xem là vô trùng (sterile). Để ngăn ngừa vi sinh vật đi vào vết thương thì điều dưỡng phải lau rửa vết thương từ phía bên ngoài. Khi sử dụng các chất không nhiễm trùng hay rửa sạch với xà phòng và nước thì bắt đầu ở gờ vết thương trước, sau đó rửa sạch bên ngoài, xung quanh vết thương.
3.4.3.6. Bảo vệ các vật chủ cảm nhiễm
Sự đề kháng của bệnh nhân với các vi sinh vật được cải thiện nhờ vào các can thiệp điều dưỡng trong việc bảo vệ hệ miễn dịch bình thường chống nhiễm trùng.
- Bảo vệ cơ chế phòng ngự bình thường của cơ thể:
+ Tắm thường xuyên sẽ làm giảm vi sinh vật trên bề mặt da.
+ Vệ sinh miệng thường xuyên giúp loại trừ protein trong nước bọt.
+ Duy trì lượng dịch đưa vào đầy đủ giúp xúc tiến sự hình thành nước tiểu bình thường và cuối cùng là tạo thành dòng chảy nước tiểu giúp tống vi sinh vật ra ngoài.
+ Đối với những bệnh nhân nằm lâu ngày, nên khuyến khích bệnh nhân ho thường xuyên, thở sâu để giữ đường hô hấp dưới sạch các chất nhày.
+ Điều dưỡng khuyến khích những bệnh nhân nhỏ tuổi, những bệnh nhân già phơi nhiễm với những vi sinh vật đi tiêm chủng một số bệnh.
+ Các nhân viên y tế nên tiêm vaccin cúm; người già nên tiêm vaccin viêm phổi hay vaccin cúm; trẻ em dùng các vaccin sởi, thuỷ đậu, sởi Đức, lao, bạch hầu,...
+ Khuyến khích bệnh nhân uống nước đầy đủ và cân bằng chế độ ăn với đầy đủ các loại protein, vitamin, mỡ, cacbonhydrat cần thiết. Ngoài ra điều dưỡng còn áp dụng các phương pháp giúp ăn ngon miệng.
+ Giúp bệnh nhân có được sự thoải mái và ngủ tốt để dự trữ năng lượng.
+ Giáo dục bệnh nhân các cách làm giảm căng thẳng.
- Cách ly bệnh nhân: sự cách ly hay các thiết bị bảo vệ bao gồm: găng tay, kính đeo mắt, bịt mặt, áo choàng, quần áo hay các thiết bị khác. Điều dưỡng nên theo các nguyên tắc cơ bản sau:
+ Điều dưỡng phải rửa tay trước khi đi vào hay đi ra khỏi phòng của bệnh nhân bị cách ly.
+ Những vật dụng có khả năng truyền nhiễm nên được loại bỏ theo phương cách ngăn ngừa sự lan truyền của vi sinh vật cho những người khác bởi các cách lan truyền bệnh.
+ Kiến thức về các quá trình bệnh và cách lan truyền nhiễm trùng nên được áp dụng khi sử dụng các hàng rào bảo vệ.
- Các biến chứng gây ra về mặt tâm thần: Khi một bệnh nhân bị buộc phải cách ly thì cảm giác cô đơn cũng như các quan hệ xã hội bình thường trở nên bị rối loạn, đặc biệt đối với trẻ em. Kết quả của quá trình nhiễm trùng, vẻ bề ngoài của cơ thể bị thay đổi. Họ cảm thấy không sạch sẽ, bị từ chối, cô đơn, tội lỗi.
Trước khi áp dụng các biện pháp cách ly thì bệnh nhân và gia đình phải biết về bản chất bệnh, mục đích của việc cách ly, các bước thực hiện. Nếu họ có khả năng tham gia vào quá trình phòng nhiễm trùng thì cơ hội giảm lan truyền nhiễm trùng sẽ cao hơn.
Ngoài ra điều dưỡng còn thực hiện các phương pháp giúp bệnh nhân trong quá trình cách ly. Điều kiện trong phòng phải tốt: phòng sạch, đầy đủ các dụng cụ cần thiết. Điều dưỡng phải biết lắng nghe các điều mà bệnh nhân quan tâm nếu không họ càng cảm thấy bị từ chối, xa cách.
Điều dưỡng phải giải thích cho gia đình bệnh nhân nguy cơ bị trầm cảm hay cô độc. Người thân trong gia đình nên động viên bệnh nhân trong những lần viếng thăm.
3.4.3.7. Bảo vệ cá nhân
Một người muốn đi vào phòng cách ly luôn luôn phải mang các thiết bị bảo vệ.
- Áo choàng để tránh sự tiếp xúc của quần áo bẩn với bệnh nhân. Ngoài ra nó còn bảo vệ các nhân viên y tế và những người thăm viếng không tiếp xúc với các dịch nhiễm trùng như máu, đàm và các dịch cơ thể khác.
- Bịt mặt: Nên mang bịt mặt khi đoán trước là máu hoặc các dịch của cơ thể có thể bắn lên mặt. Ngoài ra, bịt mặt có thể giúp tránh hít các vi sinh vật từ đường hô hấp của bệnh nhân và ngăn ngừa sự lan truyền tác nhân gây bệnh từ đường hô hấp của điều dưỡng sang bệnh nhân. Nó còn giúp tránh sờ vào mũi, mắt, miệng. Nếu có mang kính thì lề trên của bịt mặt phải khít ngay bên dưới kính để tránh hơi nước trong quá trình thở ra đóng vào kính làm mờ kính. Khi mang bịt miệng thì tránh nói
chuyện nhiều vì sẽ làm ẩm bịt miệng và như vậy không có tác dụng vì không ngăn chặn được vi sinh vật. Các thiết bị bảo vệ đường hô hấp đặc biệt khác hay bịt mặt là cần thiết khi chăm sóc những bệnh nhân bị lao hay nghi ngờ bị lao.
- Găng ngăn ngừa lan truyền bệnh qua tiếp xúc trực tiếp hay gián tiếp. Những nguyên nhân phải mang găng là:
+ Giảm khả năng tiếp xúc giữa một người với các vi sinh vật nhiễm trùng (ví dụ như cầm bông bị nhiễm bẩn, hoặc lau cho những bệnh nhân bị viêm gan, đại tiểu tiện không tự chủ).
+ Làm giảm khả năng truyền các chủng vi sinh vật nội sinh của một người cho bệnh nhân.
+ Giảm khả năng khuẩn lạc của vi sinh vật truyền từ người này sang người khác. Điều dưỡng mang găng khi có nguy cơ phơi nhiễm với các vật bị nhiễm trùng. Đặc biệt khi điều dưỡng có vết xước hay tổn thương da, khi có nguy cơ đổ máu hay các dịch khác của cơ thể lên tay và khi họ không có kinh nghiệm.
Sau mỗi lần tiếp xúc với bất cứ các vật nhiễm trùng nào thì phải thay găng kể cả khi việc chăm sóc chưa thực hiện xong.
Nhiều người thường nghĩ rằng họ có thể chạm vào bất cứ các vật bị nhiễm bẩn nào sau khi mang găng. Điều dưỡng phải giải thích cho họ biết rằng truyền nhiễm vẫn có thể xảy ra ngay cả khi đã mang găng. Vì vậy phải rửa tay sau khi cởi găng ra.
- Kính bảo vệ mắt: Khi tham gia vào các thủ thuật xâm nhập có khả năng tạo ra các giọt bẩn, phun máu hoặc các dịch của cơ thể, điều dưỡng phải mang kính, khẩu trang. Ví dụ như đưa kim vào động mạch hay rửa một vết thương lớn trong ổ bụng. Kính phải ôm vừa chặt quanh mặt để dịch không thể bắn vào giữa mặt và kính.
- Thu thập bệnh phẩm: Nhiều xét nghiệm cần thiết khi bệnh nhân bị nghi ngờ nhiễm khuẫn. Các dịch cơ thể hay các chất tiết bị nghi ngờ có chứa vi sinh vật nhiễm trùng thì được thu thập để nuôi cấy và đánh giá độ nhạy cảm. Mẫu được đặt ở môi trường thích hợp cho sự phát triển của vi sinh vật. Điều dưỡng thu thập tất cả các mẫu nuôi cấy bằng cách dùng găng và các thiết bị vô khuẩn. Việc thu thập bệnh phẩm sạch từ các vị trí nhiễm trùng (ví dụ như trong trường hợp túi dẫn lưu từ vết thương) phải bảo đảm rằng tất cả các mẫu không bị lây nhiễm bởi các vi khuẩn xung quanh.
- Di chuyển bệnh nhân: Những bệnh nhân bị nhiễm trùng chỉ nên ra khỏi phòng khi cần thiết, ví dụ như làm các thủ thuật chẩn đoán hay phẫu thuật. Trước khi di chuyển bệnh nhân đến xe lăn, điều dưỡng mặc áo choàng cho họ. Những bệnh nhân mắc bệnh ở đường hô hấp phải mang bịt mặt. Những người di chuyển bệnh nhân cũng phải mang các thiết bị bảo vệ khi cần.
Khi di chuyển bệnh nhân có thể các dịch của cơ thể sẽ chảy vào xe lăn. Điều dưỡng phải bảo đảm rằng xe lăn phải được làm sạch sau khi đưa trả bệnh nhân trở lại phòng. Có thể dùng khăn phủ lên xe lăn để tránh làm bẩn xe.
Những người trong phòng phẫu thuật, thủ thuật nên được thông báo rằng bệnh nhân đang bị cách ly.
3.4.4. Giáo dục bệnh nhân
Điều dưỡng giáo dục bệnh nhân các kiến thức về nhiễm trùng và các kỹ thuật ngăn ngừa và kiểm soát sự lan truyền. Các chủ đề mà điều dưỡng có thể thảo luận trong phần giáo dục bệnh nhân bao gồm:
- Sự cảm nhiễm của bệnh nhân với nhiễm trùng.
- Chuỗi nhiễm trùng, các cách phòng sự lây truyền đặc biệt.
- Thực hành vệ sinh để làm giảm sự phát triển và sự lan truyền vi sinh vật.
- Các cách chăm sóc sức khoẻ để ngăn ngừa nhiễm trùng (chế độ ăn, tiêm chủng và tập thể dục).
- Các phương pháp bảo quản thức ăn thích hợp.
- Các thành viên trong gia đình, những người có nguy cơ bị nhiễm trùng mắc phải.
- Những thành viên trong gia đình chăm sóc những bệnh nhân như vậy cũng nên được nằm trong kế hoạch giáo dục.
Điều dưỡng giáo dục bệnh nhân và các thành viên trong gia đình cách kiểm soát và ngăn ngừa nhiễm trùng.
3.4.5. Vô trùng trong phẫu thuật
3.4.5.1. Chuẩn bị bệnh nhân
Vì vô trùng trong phẫu thuật cần kỹ thuật chính xác nên điều dưỡng cần có sự hợp tác của bệnh nhân. Vì vậy điều dưỡng cần chuẩn bị bệnh nhân trước bất cứ thủ thuật nào. Bệnh nhân có thể lo sợ sẽ chạm vào các dụng cụ vô trùng trong quá trình thủ thuật. Điều dưỡng cần giải thích cho bệnh nhân thủ thuật sẽ được thực hiện như thế nào và những gì mà bệnh nhân có thể làm để tránh truyền nhiễm cho các vật dụng vô trùng, bao gồm:
- Tránh di chuyển đột ngột các phần của cơ thể khi đã được đắp chăn vô khuẩn.
- Tránh chạm vào các vật dụng vô khuẩn, chăn vô khuẩn, găng tay của điều dưỡng.
- Tránh ho, hắt hơi, hay nói trong các vùng vô trùng. Một số thủ thuật vô trùng có thể diễn ra trong một khoảng thời gian dài. Điều dưỡng phải đánh giá nhu cầu và đoán trước các yếu tố có thể ảnh hưởng đến thủ thuật. Ví dụ như cho bệnh nhân đi cầu trước khi làm thủ thuật hay với những bệnh nhân bị nhiễm khuẩn hô hấp thì điều dưỡng nên cho họ mang khẩu trang trong quá trình làm thủ thuật.
3.4.5.2. Nguyên tắc vô trùng trong phẫu thuật (asepsis)
Khi bắt đầu các thủ thuật vô trùng trong phẫu thuật, điều dưỡng phải theo các nguyên tắc sau, nếu không bệnh nhân sẽ có nguy cơ nhiễm trùng cao:
- Các vật dụng vô khuẩn vẫn vô khuẩn khi tiếp xúc với các vật dụng vô khuẩn khác. Nguyên tắc này chỉ đạo điều dưỡng trong việc đặt các vật dụng vô khuẩn và cách cầm chúng.
- Chỉ các vật dụng vô khuẩn mới có thể được đặt vào vùng vô khuẩn. Tất cả các vật dụng phải được tiệt trùng trước khi đưa vào sử dụng. Các vật dụng tiệt trùng phải được cất giữ ở những vùng khô và sạch. Các túi hay các bình đựng dụng cụ tiệt khuẩn phải nguyên vẹn và khô.
- Các vật hay các vùng ở bên dưới eo cơ thể người là nhiễm khuẩn. Điều dưỡng không bao giờ quay lưng vào khay vô trùng hay để nó mà không để ý. Sự truyền nhiễm có thể xảy ra mà không biết như: áo quần đụng vào, sợi tóc rụng hay bệnh nhân chạm vào vật dụng vô khuẩn. Tất cả những vật dụng nào được đặt nằm dưới mức eo thì được xem là truyền nhiễm vì không nằm trong vòng quan sát.
- Các vật dụng hay các vùng vô khuẩn trở nên nhiễm khuẩn do tiếp xúc lâu với không khí. Điều dưỡng tránh các hoạt động có thể tạo ra chuyển động khí như: di chuyển quá mức, sắp xếp lại khăn trải giường sau khi các vật dụng hay vùng vô khuẩn đang bị phơi nhiễm. Khi túi vô trùng được mở ra thì hạn chế số người đi lại ở khu vực này. Không nên nói, cười hay hắt hơi, ho ở vùng vô khuẩn, hoặc khi sử dụng các thiết bị vô khuẩn. Những điều dưỡng bị cúm hay nhiễm trùng đường hô hấp không nên thực hiện các thủ thuật vô khuẩn trừ khi họ đeo khẩu trang đôi. Khi mở các túi vô khuẩn ra, điều dưỡng cầm các vật dụng càng gần vùng vô khuẩn càng tốt.
- Dịch sẽ chảy theo trọng lực. Một vật vô khuẩn trở nên bị nhiễm bẩn nếu bị chảy các dịch bẩn khác vào. Ví dụ, để tránh vấy nhiễm các dịch bẩn thì trong quá trình rửa tay ngoại khoa, điều dưỡng phải để tay cao trên mức khuỷu tay. Nguyên tắc này cũng chỉ đạo cho việc làm khô các ngón tay trước rồi đến khuỷu tay với hai tay đưa lên cao.
- Các cạnh hay lề của vùng vô khuẩn hay các chai vô khuẩn được xem như là bẩn. Miệng chai vô khuẩn phơi nhiễm với không khí sau khi được mở nắp ra, vì vậy nhiễm bẩn. Sau khi kim vô khuẩn được tháo ra khỏi nắp bảo vệ, hoặc sau khi forcep được lấy ra khỏi chai, các vật này không được
chạm vào các lề của vật chứa. Miệng của chai được mở ra sẽ bị nhiễm bẩn sau khi tiếp xúc với không khí. Khi rót dịch vô khuẩn, đầu tiên rót ra một lượng dịch nhỏ và đổ đi.
3.5. Lượng giá
Thành công của điều dưỡng trong thực hành các kỹ thuật kiểm soát nhiễm khuẩn được đánh giá qua việc xác định xem mục tiêu làm giảm hay ngăn ngừa nhiễm trùng có đạt được không.
So sánh đáp ứng của bệnh nhân (ví dụ không còn sốt) với các kết quả mong muốn có thể quyết định thành công của các biện pháp can thiệp.
Những bệnh nhân bị nhiễm trùng phải hiểu các phương pháp cần thiết để làm giảm hay ngăn ngừa sự phát triển, lan truyền của vi sinh vật. Cho bệnh nhân và các thành viên trong gia đình cơ hội thảo luận về các phương pháp kiểm soát nhiễm khuẩn hay làm thử các quy trình, qua đó sẽ biểu lộ khả năng tuân theo liệu pháp hay không. Điều dưỡng có thể quyết định xem bệnh nhân cần thêm thông tin mới hay những thông tin được hướng dẫn trước đây cần củng cố lại.
Điều dưỡng thu thập tất cả các dữ liệu về đáp ứng với các liệu pháp kiểm soát nhiễm trùng. Một sự mô tả rõ ràng và đầy đủ về bất cứ các dấu hiệu hay triệu chứng nào của nhiễm trùng toàn thân hay tại chỗ cũng cần thiết để cung cấp cho điều dưỡng một nền tảng trong việc đánh giá so sánh.
EBOOK - SÁCH ĐIỀU DƯỠNG CƠ BẢN
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN NGÀNH ĐIỀU DƯỠNG